Tỷ lệ lạm phát tại Mỹ tiếp tục có mức tăng trong tháng Tư vừa qua, qua đó đánh dấu tháng thứ hai liên tục trong năm 2022 có lạm phát vượt lên trên 8% đồng thời lạm phát của nền kinh tế lớn nhất thế giới cũng đạt mức kỷ lục trong hơn 40 năm qua (kể từ tháng 12/1981). Giá các loại hàng hoá, thực phẩm, dịch vụ và đi lại đều gia tăng nhanh chóng khi liên tục ghi nhận các mức tăng kỷ lục nhưng tốc độ tăng trưởng thực tế vẫn chưa đạt được kì vọng. Nhiều người bắt đầu đặt ra câu hỏi về việc liệu chúng ta sắp phải đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế hay không? Rất khó để nói trước được tương lai sẽ diễn biến ra sao nhưng trong lịch sử, nền kinh tế thế giới đã từng nhiều lần trải qua cuộc suy thoái thậm chí là khủng hoảng để lại nhiều hậu quả nặng nề nhưng rồi sau đó, mọi thứ đều quay lại đúng quỹ đạo của nó. Những dự đoán về tương lai có thể đúng hoặc sai nhưng lịch sử đã diễn ra thì chắc chắn đúng, quan trọng là chúng ta rút ra được gì từ những câu chuyện đó. Series nay mình sẽ giới thiệu cho các bạn một số cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính lớn trong quá khứ cũng những góc nhìn cá của mình nhé. Trước hết mình sẽ nói về một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới – Đại khủng hoảng (1929 – 1939).
Đại khủng hoảng – The Great Depression là gì?
Đại khủng hoảng – The Great Depression là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra ở hầu hết hết các quốc gia trên thế giới kéo dài từ năm 1929 và cho đến tận những năm cuối của thập niên 30 trong thế kỷ trước. Đại khủng hoảng bắt đầu từ Hoa Kỳ trước khi lan rộng ra nhiều nước và trở thành đợt khủng hoảng, suy thoái kinh tế tài chính dài nhất, sâu rộng và khốc liệt nhất của thế kỷ XX trên toàn cầu. Trong cuộc khủng hoảng này các ngân hàng hầu như phải đóng cửa, thị trường chứng khoản sụp đồ, thất nghiệp, đói kém tràn lan khắp mọi nơi và để lại nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với những người sống tại thời điểm lúc bấy giờ. Tất nhiên, hậu quả của “The Great Depression” không chỉ dừng lại ở các vấn đề về kinh tế hay an sinh xã hội mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp tới chính trị của các quốc gia liên quan góp phần tạo cơ hội cho sự trỗi dậy của các chủ nghĩa dân tuý lẫn các chế độ độc tài trên khắp thế giới sau này.
Nói tóm lại Đại khủng hoảng đã có những tác động tàn khốc ở nhiều quốc gia trên thế giới bất kể giàu hay nghèo và phải mất một thời gian rất lâu sau đó nền kinh tế mới được phục hồi trở lại. Đây được xem như là một ví dụ điển hình khi người ta nói về mức độ suy giảm của nền kinh tế trên toàn cầu góp phần chấm dứt giai đoạn ổn định của chủ nghĩa tư bản trong những năm 1920.
Các nhà kinh tế đại tài ở thời điểm đó như John Maynard Keynes hay thâm chí Irving Fisher còn dự báo thị trường sẽ lên mạnh cũng không thể dự báo trước được viễn cảnh này. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến sự sụp đổ khủng khiếp năm ấy, hôm nay mình sẽ nói về nó.
Diễn biến
Bối cảnh
Sau thế chiến thứ nhất, có thể nói Hoa Kỳ đã ở trong thời kỳ cực thịnh về kinh tế. Thời kì này đã mang đất nước họ lên một tầm cao mới nhờ sự giàu lên nhanh chóng và sự phát triển ổn định của các ngành công nghiệp nặng. Công nghiệp ô tô và xây dựng tăng trưởng nhộn nhịp và với số lượng việc làm ổn định mà 2 ngành kinh tế thịnh vượng nhất lúc bấy giờ tạo ra, tiền lương và tiêu dùng của người dân Mỹ cũng ngày càng được cải thiện. Mặc dù có những đợt suy giảm nhẹ vào những năm 1923 hay 1926 nhưng nhìn chung có thể nói bức tranh của nền kinh tế Mỹ lúc bấy giờ là rất tươi đẹp.
Các ngân hàng cũng không ngoại lệ, cho đến 1929 tổng giá trị của bảng cân đối kế toán của 25.000 ngân hàng tại Mỹ lúc bấy giới là 60 tỷ USD cung cùng các tài sản nắm giữ với chất lượng vượt trội như tiền mặt, trái phiếu,.. Trong giai đoạn 1920 – 1929, GDP Mỹ tăng trưởng 42% từ 688 tỷ USD lên đến 977 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng thêm khoảng 1.500 USD và tỷ lệ thất nghiệp cũng được giữ ở mức an toàn dưới 4%. Sự lạc quan của người dân và sự thịnh vượng khi đó ở mức cao chưa từng có.
Nền kinh tế tăng trưởng mạnh đã nuôi dường sự tin tưởng và lạc quan của mọi người, điều đó cũng góp phần tạo ra những sự hưng phấn quá mức gây nên cơn sốt đầu tư lúc bấy giờ hay nói cách khác là tham vọng đầu cơ đổi đời. Hàng trăm triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi năm trên sàn chứng khoán New York từ năm 1927 – 1929 cùng với đó là mệnh giá của các loại cố phiếu gia tăng nhanh chóng. Các tờ báo liên tục đăng tải câu chuyện về các giáo viên, lái xe, người giúp việc kiếm cả triệu USD trên thị trường chứng khoán cùng với việc thị trường tạo thêm nhiều đỉnh mới vào mùa hè định mệnh năm 1929 đã khiến nhiều nhà đầu tư phớt lờ các cảnh báo tiêu cực về một bong bóng sắp xảy ra.
Cầu vồng trước cơn bão
Năm 1920, tình hình sản xuất và tỷ lệ người lao động có việc làm đạt mức cao và không ngừng tăng. Lương tuy không tăng mạnh nhưng giá cả vẫn giữ ở mức ổn định. Tuy vẫn còn người nghèo nhưng cuộc sống của rất nhiều người đã đầy đủ, sung túc hơn trước. Từ năm 1925 – 1929, số lượng các nhà máy sản xuất đã tăng từ 183.900 lên 206.700, giá trị tổng sản phẩm chúng tạo ra tăng từ 60,8 tỷ USD lên 68 tỷ USD.
Vào giữa những năm 1920 Ở Florida, đất được chia thành các lô xây dựng và chỉ cần trả trước 10% tiền mặt là mua được. Trong suốt năm 1925, cơn sốt làm giàu thật nhanh đã thu hút ngày càng nhiều người đổ xô đến Florida. Mỗi tuần, lại có thêm nhiều đất đai bị chia nhỏ thành lô để bán. Những gì vốn được gọi là bờ biển giờ đã cách xa biển đến 5, 10, rồi 15 dặm.
Tuy nhiên, mùa xuân năm 1926, lượng người mua – yếu tố quan trọng đẩy giá tăng – bắt đầu giảm. Đầu năm 1926 thị trường xuất hiện vài dấu hiệu sụt giảm, hoạt động kinh doanh khẽ đi xuống, nên nhiều người cho rằng doanh thu năm trước đã tăng rất vô lý. Tháng 2 chứng kiến một cú sụt lớn của thị trường và tháng 3 là sự sụp giảm đột ngột. Chỉ số công nghiệp Times giảm từ 181 hồi đầu năm xuống 172 vào tháng 2, sau đó giảm tiếp gần 30 điểm xuống còn 143 vào cuối tháng 3. Tuy vậy, vào tháng 4, thị trường lại vững vàng trở lại và tiếp tục đi lên.Mùa thu năm 1926, hai cơn bão lớn ập đến, những trận bão gió khủng khiếp nhất vào ngày 18 tháng 9 năm 1926 đã cướp đi sinh mạng của 400 người, xé tung hàng ngàn mái nhà và cuốn hàng tấn nước cũng như một lượng lớn thuyền buồm lên đường phố Miami. Thị trường lại sụt giảm một lần nữa nhưng một lần nữa thị trường lại nhanh chóng hồi phục. Đến cuối năm, giá trị đã đạt mức tương đương hồi đầu năm.
Năm 1927, giá cả leo thang chóng mặt. Ngày qua ngày, giá cổ phiếu liên tục tăng. Lợi nhuận thu được không nhiều nhưng chúng mang lại cho người dân rất nhiều hy vọng .Trong suốt năm 1927, chỉ có duy nhất hai tháng là chỉ số giá trung bình không tăng. Mùa xuân năm 1927, Montagu Norman – Thống đốc ngân hàng Anh Quốc, Hjamar Schacht -Thống đốc ngân hàng Reichsbank, và Charles Rist – Phó Thống đốc ngân hàng Pháp – đã đến Mỹ thuyết phục chính phủ nước này nới lỏng chính sách tiền tệ và được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chấp thuận.
Tỷ lệ tái chiết khấu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York giảm từ 4 xuống còn 3,5%. Được rót tiền, người dân nhất loạt đổ xô vào thị trường. Mùa hè năm 1927, Henry Ford hạ màn cho mẫu ô tô bất tử Model T và đóng cửa nhà máy để chuẩn bị cho Model A. Sự kiện này dẫn đến chỉ số công nghiệp của Cục Dự trữ Liên bang bắt đầu giảm. Lúc này, người ta bắt đầu bàn nhiều hơn đến chủ đề suy thoái. Nhưng sự kiện này tác động không đáng kể đến thị trường. Tới cuối năm, khi sản lượng tăng trở lại, chỉ số công nghiệp Times lại đứng ở mức 245, tăng tổng cộng 69 điểm trong vòng một năm.
Ngày 4 tháng 12 năm 1928, Tổng thống Mỹ Coolidge triệu tập Quốc hội để đưa ra tuyên bố cuối cùng về tình hình đất nước. Đây thật sự là đỉnh cao của những năm tháng thịnh vượng. Bên ngoài nước Mỹ, thế giới sống trong hòa bình và thiện chí nhờ hiểu biết lẫn nhau…”
Trong suốt năm 1928, tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York của cả năm là 920.550.032, vượt xa con số kỷ lục 576.990.875 cổ phiếu đổi chủ của năm 1927. Nhưng vẫn còn một chỉ số quan trọng hơn mô tả những gì đang xảy ra trên thị trường. Đó là sự gia tăng của các giao dịch ký quỹ. Tiền ký quỹ – là số tiền nhà đầu cơ phải trả ngoài chứng khoán thế chấp để bảo vệ khoản nợ và phải tăng thêm nếu chứng khoán thế chấp mất giá và khả năng bảo vệ suy yếu – được tính toán và theo dõi rất đơn giản. Theo chỉ số này, lượng đầu cơ tăng rất nhanh trong năm 1928. Đầu những năm 1920, lượng nợ của các nhà môi giới dao động từ khoảng 1 đến 1,5 tỷ USD và chúng thường được gọi là khoản vay tính theo ngày hay khoản vay nóng do có khả năng thanh khoản rất nhanh. Cho tới cuối năm 1928 là 6 tỷ USD.
Ngân hàng cung cấp vốn cho nhà môi giới, nhà môi giới lại cấp vốn cho khách hàng, và khoản thế chấp quay trở lại ngân hàng.Một trong những nghịch lý của đầu cơ chứng khoán là khoản nợ bảo hiểm cho nó lại là khoản đầu tư an toàn nhất. Chúng được bảo vệ bởi các cổ phiếu mà trong trường hợp bình thường, có thể bán được ngay lập tức; và bởi tiền ký quỹ – số tiền có thể thu lại bất kỳ lúc nào nếu cần.
Năm 1928 , các ngân hàng New York có thể vay tiền từ Ngân hàng Dự trữ Liên bang với tỷ lệ 5% và cho vay lại trên thị trường vay nóng ở mức 12%. Khi thị trường cất cánh với sự khởi đầu sôi sục ngay sau ngày 1 tháng 1, năm ngày sau đó, các khoản vay của nhà môi giới nhảy vọt lên tới 260 triệu USD; trong ba ngày, lượng giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York đã vượt ngưỡng 5 triệu USD.
Trong năm 1928, ước tính có khoảng 186 quỹ tín thác đầu tư được thành lập. Trong những tháng đầu năm 1929, mỗi ngày có một quỹ mới ra đời, và tổng cộng có thêm 265 quỹ xuất hiện trong năm đó. Năm 1927, các quỹ tín thác đã bán ra số lượng chứng khoán trị giá khoảng 400 triệu USD; tới năm 1929, họ tung ra thị trường khoảng 3 tỷ USD chứng khoán. Con số này chiếm ít nhất 1/3 lượng chứng khoán phát hành năm đó;
Và tới mùa thu năm 1929, tổng giá trị tài sản của các quỹ tín thác đầu tư được ước tính là hơn 8 tỷ USD. Như vậy, tài sản của các quỹ tín thác đã tăng khoảng 11 lần kể từ đầu năm 1927. Ngày 1 tháng 1 năm 1929, Khi giá cả ngừng tăng – hay nói cách khác, khi lượng người mua vì cái lợi tăng giá thưa dần – quyền sở hữu cổ phiếu ký quỹ không còn ý nghĩa nữa và ai cũng muốn bán ra. Thị trường mất cân bằng và nhanh chóng sụp đổ.
Sai lầm của FED
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế tại Hoa Kỳ thời điểm đó có thể kể đến là sai lầm của FED (khi ấy mới thành lập) đang phải đối mặt với một vấn đề hóc búa: khi giá cổ phiếu và giá hàng hóa trong các cửa hàng bắt đầu biến động trái chiều nhau. Thị trường đã bùng nổ đối với cổ phiếu của các công ty khai thác công nghệ mới như radio, nhôm và máy bay – đã trở nên đặc biệt phổ biến. Nhưng một vài trong số đó bắt đầu đạt kỷ lục về chi trả cổ tức và các nhà đầu tư tiếp tục dồn tiền vào cổ phiếu đó với hy vọng chúng sẽ tiếp tục tăng giá. Trong khi đó, công việc kinh doanh lại yếu đi và giá tiêu dùng sụt giảm. Và đó là thời gian mà một câu hỏi hóc búa được đặt ra và Fed trở nên khó xử giữa hai sự lựa chọn: liệu sẽ tăng lãi suất để thị trường bớt nóng lại hay giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế? Và cuối cùng, những ai không tham gia vào thị trường mới là người giành phần thắng: NHTW quyết định tăng lãi suất vào năm 1928.
Đó là một sai lầm thảm họa. Biên độ tăng lãi suất từ 3,5% lên 5% là quá nhỏ để đẩy lùi sự nóng lên của thị trường: giá cổ phiếu tiếp tục tăng vọt đến thời điểm tháng 9/1929, khi chỉ số Dow Jones đạt 381 điểm – mức cao nhất lịch sử cho đến thời điểm đó. Không những vậy, lãi suất tăng còn làm tổn thương những ngành kinh tế đang suy giảm của Mỹ. Cho đến cuối mùa hè năm 1929, các ngành sản xuất đã giảm với tốc độ năm là 45%. Cùng với sự xấu đi của nền kinh tế trong nước, những tin tức bất lợi từ bên ngoài cũng ập đến. Vào tháng 9 năm đó, Sàn giao dịch Chứng khoán London sụp đổ khi Clarence Hatry, trùm lừa đảo trong ngành tài chính bị bắt. Và thế là xu hướng bán tháo bắt đầu. Một cách vô cùng mạnh mẽ: chỉ hơn 2 ngày (28/10-29/10), Dow Jones đã giảm gần 25%. Cho đến ngày 13/11, chỉ số này chỉ còn 198 điểm, giảm 45% trong vòng 2 tháng.
Phố Wall sụp đổ
Sự kiện “Phố Wall sụp đổ” được nhiều nhà sử học kinh tế coi như là chất xúc tác của Đại khủng hoảng diễn ra sau đó.
Ngày 18/10/1929, sự sụp đổ xuất hiện khi các nhà đầu tư lo sợ đã bán tháo gần 13 triệu cổ phiếu – một con số kỷ lục lúc bấy giờ. Dù cho các công ty đầu tư và các ngân hàng hàng đầu đã cố gắng ổn định thị trường bằng cách mua vào số lượng lớn chứng khoán nhờ đó giá cổ phiếu tăng nhẹ trở lại. Tuy nhiên, đến 21/10/1929 cơn bão lại ập đến khiến thị trường chao đảo và rơi tự do. Ngày thứ 5 đen tối – 24/10/1929, hơn 6 triệu cổ phiếu liên tục được rao bán mạnh mẽ dẫn đến giá giảm liên tục trong phiên sáng. Mọi người bắt đầu đổ xô về Wall Stress, thậm chí có người còn tự tử.
Lãnh đạo các ngân hàng bắt đầu tổ chức họp gấp và quyết định cứu vãn thị trường bằng cách mua lại só lượng các cổ phiếu chiến lược. Việc làm này ngay lập tức có hiệu quả, khi vào cuối thị trường đã có dấu hiệu phục hồi trở lại. Nhưng cũng chẳng được bao lâu, mọi thứ bắt đầu lại bắt đầu rơi vào khủng hoảng. 29/10/1929 có khoảng 9 triệu cổ phiếu được bán tháo ra ngoài thị trường và con số là 16 triệu cổ phiếu vào ngày hôm sau. Lần này thì các công ty đầu tư và cả ngân hàng không thể làm gì để ngăn cản sự sụp đổ này nữa, đến tháng 11/1929 chỉ số Dow Jones giảm 51% so với tháng 9 và cổ phiếu thay nhay rớt giá trong 3 năm tiếp theo đó.
Hậu quả
Mỹ
Từ năm 1929 – 1931 có 4300 các ngân hàng phải đóng cửa, hàng triệu người mất trắng các khoản tiền tiết kiệm để đời. Sức mua và nhu cầu giảm mạnh khiến cho hoạt động của ngành sản xuất kinh tế trở nên đình trệ. Điều này đã dẫn đến việc hơn 4 triệu người Mỹ thất nghiệp vào năm 1930. Con số này thậm chí còn lên đến 8 triệu người vào năm 1931, 12 triệu người vào năm 1932. Thu nhập quốc dân của Mỹ chỉ còn một nửa. Làn sóng sụp đổ liên tiếp của các ngân hàng và đỉnh điểm vào tháng 2/1933 với quy mô trên toàn nước Mỹ, các ngân hàng liên tục ban bố tình trạng khẩn cấp và quay lại cầu cứu sự giúp đỡ từ FED. Nhưng vào ngày 4/3/1933, FED từ chối cho vay và đóng cửa tất cửa tất cả các ngân hàng còn sống sót nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng kéo dài, đó là tuần đen tối nhất trong lịch sử tài chính của Mỹ có những ngân hàng thậm chí còn không bao giờ mở cửa trở lại. Do sự thiếu hụt việc làm và hầu hết người dân không có thu nhập đồng thời thiếu vắng sự có mặt giúp đỡ của các tổ chức an sinh xã hội đã làm nạn đói lan nhanh tại đất nước này. Đã có hơn 7 triệu sinh mạng ra đi trong nạn đói 1932 – 1933.
Thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã lan rộng ra toàn thế giới. Không chỉ ở Hoa Kỳ mà giờ đây tình trạng thất nghiệp cùng những biến động chính trị đã đồng loạt trở thành mối lo ngại của các nước trên thế giới. Chúng ta gọi đây là thời kỳ Đại Khủng Hoảng – The Great Depression.
Các nhà máy liên tiếp đóng cửa, hàng nghìn ngân hàng theo nhau phá sản, hàng triệu người thất nghiệp không còn phương kế sinh sống, hàng nghìn người mất nhà cửa vì không trả được tiền cầm cố, nhà nước không thu được thuế, công chức không được trả lương..
Đến năm 1932, cuộc khủng hoảng đạt tới đỉnh cao nhất, khi giá trị hàng xuất khẩu từ 5 tỉ 241 triệu USD giảm xuống còn 2,4 tỉ USD; nhập khẩu từ 4 tỉ 399 triệu USD giảm xuống còn 1 tỉ 322 triệu USD; thu nhập quốc dân giảm một nửa, con số thất nghiệp lên tới 12 triệu người… Tại Đức, đến năm 1933, hệ thống sản xuất công nghiệp chỉ sử dụng hết 35,7% công suất mà số sản phẩm ít ỏi làm ra vẫn không tiêu thụ được, do đó, nhiều xí nghiệp bị phá sản. Tiền lương thực tế của người lao động giảm 30%, có tới 9 triệu người thất nghiệp… Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tàn phá khủng khiếp nền kinh tế thế giới: sản lượng công nghiệp giảm 45%, số nhà xây mới giảm 80%, khoảng 5.000 ngân hàng bị phá sản, khoảng 50 triệu người thất nghiệp, phải sống trong cảnh nghèo đói.
Trong bối cảnh đó, mâu thuẫn xã hội bùng nổ gay gắt. Hàng nghìn cuộc biểu tình của những người thất nghiệp đã nổ ra, nhiều trường hợp đã dẫn tới xung đột với cảnh sát và quân đội. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở các nước tư bản đã lên tới 17 triệu, còn số ngày bãi công là 267 triệu.
Nguy hiểm hơn, các nước tư bản không có hoặc có ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường, đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị hòng cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Điển hình là ở Đức, Italia và Nhật Bản, từ đó, bắt đầu hình thành những lò lửa chiến tranh.
Trong khi đó, những nước như Mỹ, Anh, Pháp… vì có thuộc địa, vốn và thị trường, có thể thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế – xã hội một cách ôn hòa, nên chủ trương tiếp tục duy trì nguyên trạng hệ thống Versailles – Washington. Từ đó, quan hệ giữa các cường quốc tư bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập – giữa một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mỹ, Anh, Pháp, cùng cuộc chạy đua vũ trang của hai khối đã báo hiệu một cuộc chiến tranh mới không thể tránh khỏi.
Tổng kết
Trên đây là nội dung về Đại khủng hoảng – The Great Depression một trong những cuộc khủng hoảng về kinh tế – tài chính lớn nhất trong lịch sử thế giới. Nhiều người coi như đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử tài chính thế giới vì sự tác động cũng như hậu quả nó mang lại, các cuộc tranh luận về chủ đề này chưa bao giờ có hồi kết. Mặc dù đã rất nhiều năm trôi qua nhưng hay nhớ rằng: “Mọi thứ có thể sai, nhưng lịch sử để lại không bao giờ sai”, nếu không rút ra được những bài học từ quá khứ thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể hướng về tương lai. Hãy học từ những bài học lịch sử để chuẩn bị cho những thứ có thể xảy ra sắp tới. Chúc anh em may mắn.